LOGISTICS TRONG
THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
Sự gia tăng của các chuỗi sản xuất toàn cầu, và mức độ cạnh
tranh toàn cầu ngày càng gay gắt đã khiến dịch
vụ logistics trở thành một lợi thế cạnh tranh chiến lược. Mạng lưới sản xuất
toàn cầu và các chuỗi cung ứng mở rộng đặt ra đòi hỏi mới đối với việc chuyển dịch
hàng hóa một cách ổn định, kịp thời và hiệu quả về chi phí. Khả năng kết nối tới
cái được gọi là “mạng Internet vật chất” đang nhanh chóng trở thành một yếu tố
chủ chốt quyết định năng lực cạnh tranh của một quốc gia. Với những quốc gia có
khả năng kết nối, thì mạng Internet vật chất này giúp họ tiếp cận được những thị
trường mới rộng lớn; còn với những quốc gia mà sự kết nối với mạng logistics
toàn cầu còn yếu kém, thì cái giá phải trả cho việc đứng ngoài mạng này là rất
lớn và ngày càng gia tăng.
Những quốc gia kết nối tốt có thể tiếp cận được với nhiều thị
trường và người tiêu dùng hơn: một quốc gia cách xa phần lớn các thị trường lớn
- Chi lê là một ví dụ - vẫn có thể là một đối thủ lớn trên thị trường thực phẩm
cao cấp thế giới, cung ứng những mặt hàng dễ hỏng như cá và quả tươi cho người
tiêu dùng ở châu Á, châu Âu và Bắc Mỹ. Còn những nước kết nối kém, cái giá phải
trả của việc đứng ngoài mạng là đáng kể và ngày càng gia tăng, và rủi ro mất cơ
hội ngày càng lớn - điều này đặc biệt đúng với các nước nghèo nhất nằm sâu
trong lục địa, rất nhiều trong số đó nằm ở châu Phi.
Trong thế giới cạnh tranh gay gắt này, chất lượng của dịch vụ
logistics có thể tác động đáng kể đến quyết định của DN trong việc lựa chọn quốc
gia để đầu tư sản xuất, lựa chọn nhà cung ứng để mua hàng và lựa chọn các thị
trường tiêu dùng để xâm nhập. Chi phí logistics cao và đặc biệt là hoạt động dịch
vụ nghèo nàn là một rào cản đối với thương mại và đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI), và do đó cản trở tăng trưởng kinh tế. Các quốc gia có chi phí logistics
nói chung cao hơn các quốc gia khác sẽ dễ bị mất đi những cơ hội của toàn cầu
hóa.
Logistics có vai trò quan trọng trong hoạt động xuất nhập khẩu |
Lấy Chad - một quốc gia không có biển - làm ví dụ. NK một
container 20 feet vận chuyển đườngbiển từ Thượng Hải đến thủ đô N’djamena thường mất khoảng 10 tuần với chi
phí khoảng 6.500 USD. Trong khi đó, để NK một container như vậy vào một quốc
gia không có biển ở Tây hoặc Đông Âu thì chỉ mất khoảng 4 tuần, và tốn chưa đầy
3.000 USD. Thời gian và chi phí chuyên chở từ Thượng Hải đến Douala - cửa ngõ
vào Chad - về cơ bản cũng giống như từ Thượng Hải đến các cảng ở Tây Âu. Còn việc
đưa hàng từ Douala đến N’djamena và đưa hàng trong nội địa châu Âu do cùng một
hãng giao nhận và vận tải quốc tế tiến hành. Vậy điều gì lý giải sự chênh lệch
lớn như vậy về mặt thời gian và chi phí?
Hãng giao nhận và vận tải này ở châu Âu sẽ sử dụng một hệ thống
thông suốt, không giấy tờ để quản lý hoạt động vận chuyển nội địa từ bãi tập kết
hàng rộng 8ha của mình đến cảng cửa ngõ Le Havre. Việc vận chuyển trong nội địa
châu Âu chỉ mất chưa đầy 3 ngày. Hãng này còn cung cấp thêm các dịch vụ khác,
như cải thiện công tác phân phối nội bộ của khách hàng.
Quy trình ở Chad lại khác. Mặc dù để chuyên chở container đó
từ Douala đến N’djamena chỉ mất có 5 ngày, song thời gian thực tế lại có thể
lên tới 5 tuần. Hãng vận tải và giao nhận này phải bố trí nhân viên công ty dọc
theo hành lang thương mại để đích thân theo dõi hàng hóa và chứng từ thương mại.
Và họ luôn phải chuẩn bị tinh thần để làm trung gian giải quyết công việc của
khách hàng với hãng vận chuyển nội địa, lực lượng an ninh và rất nhiều cơ quan
nhà nước.
ĐO LƯỜNG HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG LOGISTICS
Hiệu quả của hoạt
động hải quan, cơ sở hạ tầng phục vụ XNK, vận tải nội địa, dịch vụ
logistics, các hệ thống thông tin và hiệu quả hoạt động của cảng biển đều là những
yếu tố mấu chốt quyết định liệu các quốc gia có thể giao thương hàng hóa và dịch
vụ kịp thời và với chi phí thấp hay không. Nhiều yếu tố mấu chốt quyết định hiệu
quả dịch vụ logistics - như sự minh bạch của các quy trình, cũng như chất lượng,
sự ổn định và đáng tin cậy của dịch vụ - lại không được thể hiện trên những
thông tin sẵn có về thời gian và chi phí. Nhưng không dễ gì thu thập thông tin
trên phạm vi toàn cầu để xây dựng một thước đo hiệu quả trong lĩnh vực này.
Để khắc phục điều này, WB đã xây dựng Chỉ số Hiệu quả hoạt động
Logistics (Logistics Performance Index - LPI) nhằm bước đầu lấp đầy lỗ hổng kiến
thức này và giúp các quốc gia xây dựng được những chương trình cải cách lĩnh vực
dịch vụ logistics, tạo thuận lợi cho hoạt động giao thương quốc tế và nâng cao
năng lực cạnh tranh. Thông qua chỉ số này, lần đầu tiên chúng ta có được một
đánh giá chuyên sâu, so sánh giữa các quốc gia về những điều còn thiếu và còn yếu
trong dịch vụ logistics của họ. Các số liệu khảo sát LPI đã được sử dụng để đo
lường một số khía cạnh trong hiệu quả của thủ tục XNK, cũng như sự sẵn có và chất
lượng của dịch vụ vận tải.
CÁC THÔNG ĐIỆP
LPI đem lại một cái nhìn sâu hơn về các phí tổn mà dịch vụ
logistics yếu kém gây ra cho năng lực cạnh tranh quốc gia - cũng như nguồn cơn
gây ra những phí tổn cao hơn đó. Một thông điệp quan trọng rút ra từ cuộc khảo
sát các DN chuyên về logistics là: mặc dù chi phí và sự kịp thời có ý nghĩa vô
cùng quan trọng, song các DN XNK lại chủ yếu bận tâm về độ tin cậy nói chung của
toàn chuỗi cung ứng. Các chi phí liên quan đến việc phòng ngừa sự bất trắc đến
nay đã chiếm một phần quan trọng trong tổng chi phí logistics ở các nước đang
phát triển. Cả chi phí và chất lượng của dịch vụ logistics đều được quyết định
không chỉ bởi hạ tầng cơ sở và hiệu quả làm việc của các cơ quan nhà nước, mà
còn bởi sự sẵn có các dịch vụ tư nhân cạnh tranh và chất lượng cao. Ngoài ra, ở
các nước đang phát triển, vấn đề về điều kiện địa lý không thuận lợi còn trở
nên phức tạp hơn do thiếu vắng một khu vực dịch vụ hiện đại - mà điều này là do
tình trạng thể chế yếu kém hoặc có quá nhiều quy định quản lý.
LPI cho thấy những khác biệt đáng kể trong hiệu quả hoạt động
logistics giữa các quốc gia và các khu vực. Những khác biệt đó thể hiện ở những
chênh lệch vốn đã tiên lượng được giữa các nước phát triển và các nước đang
phát triển, và giữa các nước đang phát triển ở cùng một trình độ phát triển.
Các nước đứng đầu bảng xếp hạng LPI thường là những đối thủ chủ chốt trong
ngành logistics, trong khi những nước cuối bảng xếp hạng lại bị mắc kẹt trong
vòng tròn luẩn quẩn giữa việc quy định quá mức, dịch vụ chất lượng kém và đầu
tư ít.
Trên thực tế, các nhà chuyên môn đánh giá sự thân thiện của
các quy trình cửa khẩu chủ yếu qua mức độ minh bạch và tính dễ tiên liệu/ổn định
của các quy trình thông quan. Ngay cả những nước đã thực hiện một chương trình
hiện đại hóa ngành hải quan thì sự phối hợp trong các thủ tục cửa khẩu giữa hải
quan và các cơ quan khác vẫn là một mối quan ngại quan trọng. Phần lớn các nhà
chuyên môn logistics vẫn chưa hài lòng với chất lượng hạ tầng cơ sở ở nhiều nước
đang phát triển. Ngay cả ở những nước mà ngành hải quan đã được hiện đại hóa, sự
phối hợp trong thủ tục cửa khẩu giữa hải quan và các cơ quan khác vẫn là một
quan ngại quan trọng. Hiệu quả hoạt động logistics ngày càng được quyết định
nhiều hơn bởi sự sẵn có của các dịch vụ tư nhân có tính cạnh tranh và chất lượng
cao, như đại lý hải quan và dịch
vụ kho bãi.
Giá trị gia tăng mà LPI đem lại là chỉ số này cung cấp một
chuẩn so sánh toàn cầu cho hiệu quả logistics và chất lượng dịch vụ.
Giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu |
CÁC NƯỚC LÀM TỐT DỊCH VỤ LOGISTICS THU LỢI NHIỀU HƠN TỪ QUÁ TRÌNH TOÀN CẦU HÓA
Khoảng cách LPI cũng làm nổi bật sự tương quan giữa hiệu quả
hoạt động logistics với kết quả hoạt động thương mại và FDI. Những nước có hoạt
động logistics hiệu quả hưởng lợi nhiều hơn từ toàn cầu hóa. Các nước có môi
trường logistics thân thiện thường hội nhập tốt hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu
và thu hút FDI định hướng XK. Vì thương mại và FDI là những kênh quốc tế chủ yếu
truyền bá tri thức, dịch vụ logistics yếu kém có thể cản trở khả năng tiếp cận
bí quyết và công nghệ mới, qua đó làm chậm tốc độ tăng năng suất.
Các nước có xếp hạng LPI cao cũng có xu hướng XK đa dạng
hơn. Với những nước đang phát triển không XK dầu thô, độ lệch chuẩn của khoảng
cách này là 0,3 trong khi các nước có hiệu quả LPI tốt có chênh lệch LPI ít nhất
là 0,5.
Tương tự, các quốc gia đang mở rộng thương mại (tỷ lệ
XNK/GDP ngày càng tăng) có xu hướng có LPI cao so với mức thu nhập của họ. So với
các nước có cùng mức thu nhập, một quốc gia làm tốt dịch vụ logistics với chênh
lệch LPI là 0,5 sẽ có mức độ mở rộng thương mại cao hơn 2%, tăng trưởng hàng
năm cao hơn 1%, hoặc mức độ đa dạng của hàng XK cao hơn 40%.
Những cải thiện trong chuỗi cung ứng đóng góp đáng kể vào việc
nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua giảm chi phí giao dịch. Đồng thời, một nền
kinh tế tăng trưởng tốt, đa dạng hóa thì dễ có được ý chí và nguồn lực cần thiết
để cải thiện hiệu quả hoạt động logistics.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét