Bài viết được Viettelcargo sưu tầm và chỉnh sửa
LỜI MỞ ĐẦU
Bước
sang thế kỉ XXI, ASEAN có sự chuyển mình mạnh mẽ nhằm tăng cường liên kết khu
vực, tận dụng những cơ hội cũng như đối phó hiệu quả hơn với những thách thức
mới. Theo đó, Tuyên bố hòa hợp ASEAN II tại Bali, Indonesia (10/2003), đề ra
những định hướng chiến lược cho sự phát triển của ASEAN, hướng tới xây dựng một
Cộng đồng ASEAN năng động, tự cường và gắn kết với ba trụ cột chính là Cộng
đồng an ninh ASEAN (ASC), Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) và Cộng đồng văn hóa xã
hội ASEAN (ASCC). Cuối năm 2015, Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) được chính thức
thành lập, đặt nền móng cho sự phát triển bền vững,
lâu dài của ASEAN.
AEC
thành lập được cho là sẽ có những tác động mạnh mẽ đối với nền kinh tế Việt
Nam. Bên cạnh những thuận lợi là những khó khăn mà chúng ta phải đối mặt khi tham
gia vào thị trường khu vực và thế giới. Để làm rõ vấn đề này, chúng tôi xin
chọn đề tài “AEC-cơ hội và
thách thức đối với Việt Nam” làm tiểu luận nghiên
cứu của mình. Bài tiểu luận có giới thiệu những nét cơ bản về ASEAN và AEC, cơ
hội và thách thức với Việt Nam khi AEC được thành lập. Qua đó, chúng tôi xin
đưa ra một số khuyến nghị đối với doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào thị trường
tiềm năng này.
Tuy nhiên, đây là một đề tài lớn,
mang tính thực tiễn cao, đòi hỏi phải có sự hiểu biết về chuyên môn, nghiệp vụ.
Chính vì thế, dù đã rất cố gắng, chúng tôi không thể tránh được những sai sót
trong quá trình thực hiện đề tài. Chúng tôi rất mong nhận được sự góp ý, đánh
giá, phê bình của quý thầy cô để bài tiểu luận được hoàn thiện hơn.
1 Tổng quan về ASEAN
và AEC
1.1
Giới thiệu về ASEAN
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
(Association of Southeast Asian Nations-ASEAN) được thành lập ngày 08/08/1967
trên cơ sở tuyên bố Bangkok, Thái Lan với 5 nước thành viên ban đầu là
Indonesia, Malaysia, Singapore, Philippines và Thái Lan. Đây được coi là một
dấu mốc lịch sử quan trọng trong tiến trình phát triển của khu vực. Sau gần 50
năm hình thành và phát triển, ASEAN ngày nay đã trở thành tổ chức hợp tác liên
Chính phủ với 10 nước thành viên (bao gồm 5 thành viên sáng lập, 5 thành viên
được kết nạp sau này là Brunei-1984, Việt Nam-1995, Lào-1997, Myanma-1997,
Campuchia-1999) và 1 quan sát viên (Đông Timor), là một thực thể chính trị-kinh
tế quan trọng ở Châu Á - Thái Bình Dương và là đối tác không thể thiếu trong
chính sách khu vực của các nước lớn và các trung tâm quan trọng trên thế giới.
ASEAN được thành lập với mục đích
ban đầu là tạo ra một tập hợp chính trị nhằm đối phó với những tác động từ cuộc
chiến tranh Việt Nam khi đó và ngăn chặn nguy cơ chủ nghĩa cộng sản (cả từ bên
trong lẫn bên ngoài). Tuy nhiên, đến nay ASEAN đã có những thay đổi cơ bản về
bản chất, thành viên, hình thức và nội dung hợp tác. ASEAN ngày nay được biết
đến là một tổ chức hợp tác khu vực thực sự, mang tính năng động và toàn diện
hơn, là một nhân tố quan trọng bảo đảm hòa bình, an ninh, hợp tác phát triển ở
khu vực Đông Nam Á và châu Á-Thái Bình Dương. Với việc tham gia vào ASEAN, các
nước Đông Nam Á không còn sự chia rẽ, đối đầu với nhau, thay vào đó là sự hợp
tác trên cơ sở hữu nghị, hiểu biết và tin cậy lẫn nhau. Ngoài ra, ASEAN còn là
đối tác chiến lược của nhiều nước trên thế giới, tạo điều kiện cho các nước
thành viên có cơ hội mở rộng quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế.
Ngày
nay, nhắc đến ASEAN không còn là nhắc đến một tổ chức đơn thuần tập hợp lực
lượng của các nước vừa và nhỏ, đang phát triển mà là một tổ chức hợp tác, đoàn
kết của một khu vực có vị trí địa lý chiến lược về chính trị, văn hóa, quân sự
và những tiềm năng to lớn trong việc giao lưu và phát triển kinh tế. Với những
điều kiện đó, ASEAN đã phát triển trở thành một khu vực năng động bậc nhất với
tầm ảnh hưởng không chỉ với kinh tế khu vực và trên thế giới. Trong năm 2014, ASEAN
là nền kinh tế lớn thứ 3 châu Á, lớn thứ 7 trên thế giới và là một trong những
nền kinh tế hội nhập sâu rộng nhất, toàn diện nhất. Với dân số của cả khu vực
là hơn 622 triệu người, ASEAN có thị trường tiêu dùng nội khối rộng lớn, chỉ
đứng sau Trung Quốc và Ấn Độ. Ngoài ra, hơn 50% dân số của ASEAN có độ tuổi
dưới 30, với cơ cấu dân số này, ASEAN có những lợi thế to lớn về lao động khi
lực lượng lao động hiện tại và tương lai đang rất dồi dào. Đặc biệt, trong năm
2015, ASEAN đã đạt được những bước phát triển mạnh mẽ về kinh tế với việc GDP
đạt trên 2.5 nghìn tỷ đô la Mỹ, gần gấp đôi so với năm 2007 và thu nhập bình
quân đầu người đã tăng hơn 80%, đạt trên 4000USD/người/năm.
Đây
là những thành quả đáng ghi nhận cho những nỗ lực hợp tác và phát triển của các
nước thành viên ASEAN trong suốt những năm qua. Nền kinh tế ASEAN hứa hẹn sẽ
phát triển hơn nữa, ảnh hưởng sâu rộng hơn nữa khi mà Cộng đồng kinh tế ASEAN
đã được thành lập cuối năm 2015 vừa qua.
1.2
Giới thiệu về AEC
Cộng đồng kinh tế ASEAN (ASEAN
Economic Community-AEC) được chính thức thành lập ngày 31/12/2015, đánh dấu sự
hợp tác phát triển mạnh mẽ của các nước thành viên ASEAN về kinh tế, đồng thời
mở ra một thời kì hội nhập bền vững, lâu dài cho khu vực. AEC ra đời với mong
muốn xây dựng một thị trường thống nhất giữa các quốc gia thành viên ASEAN,
thúc đẩy sự giao lưu, di chuyển về hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, lao động trong
khu vực. Mục tiêu của AEC là thúc đẩy phát triển kinh tế một cách công bằng,
thiết lập môi trường kinh tế cạnh tranh, đồng thời giúp cho ASEAN có thể hội
nhập sâu rộng và bình đẳng vào nền kinh tế toàn cầu.
AEC ra đời dựa trên một loạt các
hiệp định được kí kết trong khuôn khổ ASEAN hướng tới mục tiêu hình thành một
thị trường chung, thống nhất. Các hiệp định được kí kết có vai trò thúc đẩy
thương mại hàng hóa, thương mại dịch vụ và đầu tư giữa các quốc gia trong khu
vực. Về thương mại hàng hóa, Hiệp định
Thương mại Hàng hoá ASEAN (ATIGA), tiền thân là Hiệp định Ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT/AFTA), được kí
kết và đi vào thực hiện từ năm 1992. ATIGA là hiệp định toàn diện đầu tiên của ASEAN
điều chỉnh toàn bộ thương mại hàng hóa trong nội khối và được xây dựng trên cơ
sở tổng hợp các cam kết cắt giảm/loại bỏ thuế quan đã được thống nhất trong
CEPT/AFTA cùng các hiệp định, nghị định thư có liên quan. Về thương mại dịch
vụ, ASEAN có Hiệp định khung về Dịch vụ ASEAN
(ASEAN Framework Agreement on Services-AFAS). AFAS được kí nhằm điều chỉnh
hoạt động cung cấp dịch vụ giữa các nước ASEAN. Ngoài ra, ASEAN còn khuyến
khích đầu tư trong khu vực qua Hiệp định
Đầu tư Toàn diện ASEAN (ASEAN comprehensive Investment Agreement- ACIA).
Tuy nhiên, phải đến năm 2003, tại
Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 9, các nhà lãnh đạo ASEAN đã thống nhất đưa ra
hoạch định về Tầm nhìn ASEAN 2020 gồm
ba trụ cột chính là Cộng đồng An ninh –
Chính trị ASEAN (APSC), Cộng đồng
Kinh tế ASEAN (AEC) và Cộng đồng Văn
hóa – Xã hội ASEAN (ASCC). Trong đó, AEC được coi là quan trọng nhất, sự
phát triển của AEC sẽ là tiền đề thúc đẩy việc thực hiện hai trụ cột còn lại.
Năm 2007, một lần nữa các nhà lãnh đạo nhấn mạnh lại cam kết này, đồng thời
quyết định đẩy nhanh quá trình thành lập AEC vào năm 2015. Đặc biệt, các nhà
lãnh đạo ASEAN đã đồng ý rút ngắn tiến trình hội nhập kinh tế khu vực bằng việc
thông qua Kế hoạch hành động AEC. Ngày 31/12/2015, Cộng đồng kinh tế ASEAN-AEC
chính thức được thành lập với 4 trụ cột chính: một thị trường và cơ sở sản xuất
thống nhất; một khu vực kinh tế cạnh tranh cao; một khu vực phát triển đồng đều
và hội nhập toàn diện vào nền kinh tế toàn cầu.
Trong quá trình xây dựng và hoàn
thiện 4 trụ cột trên, ASEAN có những chính sách, bước đi mạnh mẽ. Ngoài những
hiệp định đã được kí kết, các nước trong ASEAN cũng có được những đồng thuận
trong việc xóa bỏ thuế quan, cắt giảm thủ tục hành chính, hướng tới một thị
trường chung. Tiêu biểu cho quá trình này chính là việc các nước ASEAN đã cơ
bản hoàn thành cắt giảm thuế quan, trong đó các nước ASEAN-6 (Brunei,
Indonesia, Malaysia, Philippines, Singapore, Thái Lan) đã cắt giảm 99.65% dòng
thuế từ ngày 01/01/2010; và các nước CLMV(Campuchia, Lào, Myanmar, Việt Nam)
được kéo dài thời gian hơn tới năm 2018. Ngoài ra, việc các nước ASEAN có chung
một mẫu C/O-form D và Cơ chế một cửa ASEAN (ASEAN Single Window-ASW) là biểu
hiện cho một khối ASEAN thống nhất.
Có thể nói, với những tiềm năng và
sự đồng thuận cao từ các nước trong khu vực, AEC được thành lập hứa hẹn sẽ
thiết lập nền tảng cho sự tự do dịch chuyển của tất cả các nhân tố sản xuất
quan trọng - hàng hóa, dịch vụ, đầu tư, lao động có kỹ thuật và dòng vốn trong
nội bộ khối.
2
Tác động của AEC với Việt Nam
2.1
Cơ hội và thách thức của Việt Nam khi AEC được thành lập
a. Cơ hội
AEC được thành lập và đi vào hoạt
động đem lại những lợi ích to lớn cho 10 nước thành viên. Trong đó, Việt Nam,
với vị trí nằm ở trung tâm khu vực, có nhiều lợi thế về kinh tế xã hội, hứa hẹn
sẽ nhận được những ảnh hưởng tích cực từ Cộng đồng kinh tế ASEAN-AEC.
Cơ
hội mở rộng thị trường
Từ trước đến nay, ASEAN luôn là một
trong những đối tác lớn, quan trọng của Việt Nam. Kể từ năm 2010, ASEAN là thị
trường xuất khẩu lớn thứ 3 của Việt Nam (sau Hoa Kỳ và EU), ở chiều ngược lại, ASEAN
là đối tác thương mại cung cấp nguồn hàng hoá lớn thứ 3 cho các doanh nghiệp
Việt Nam (sau Trung Quốc và Hàn Quốc). AEC được thành lập sẽ đem lại những lợi
thế lớn cho nền kinh tế và doanh nghiệp trong nước. Trước hết, đó là cơ hội
tiếp cận với thị trường có quy mô dân số 622 triệu người với mức thu nhập bình
quân trên 4000 USD/năm. Bên cạnh đó, các nước ASEAN có nhiều điểm chung về văn
hóa, tôn giáo. Đây cũng chính là một lợi thế cho doanh nghiệp Việt Nam khi tiếp
cận thị trường này.
Trong thời gian qua, ASEAN cũng đã
tăng cường hội nhập, hợp tác với các quốc gia, khu vực trên thế giới. Những
Hiệp định Thương mại tự do mà ASEAN kí với các quốc gia Australia, New Zealand,
Hàn Quốc, Nhật Bản và Trung Quốc sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp Việt Nam có
cơ hội tiếp cận những thị trường rộng lớn và tiềm năng khác.
Cơ
hội thu hút đầu tư
Một trong những cơ hội lớn nhất khi AEC
đi vào hoạt động là tăng khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài, cả từ ngoại
khối và nội khối. Đây là cơ hội mà không chỉ Việt Nam mà tất cả các quốc gia
Đông Nam Á đều mong đợi. Khi ASEAN trở thành một cộng đồng kinh tế chung có
nghĩa là các nền kinh tế trong khu vực có sự hợp tác chặt chẽ, không còn là
những nền kinh tế rời rạc, chia cắt. Điều này khiến các nhà đầu tư nhìn nhận ASEAN
là một nền kinh tế, có chung nguồn lực sản xuất cũng như nguồn nhân lực có kĩ
năng và giá còn tương đối rẻ.
Đặc biệt, khi tham gia vào AEC, Việt
Nam sẽ phải đẩy mạnh việc cải cách thủ tục hành chính, hiện đại hóa nền kinh
tế, nâng cao trình độ phát triển, cải thiện môi trường đầu tư. Chính những thay
đổi đó sẽ giúp cho Việt Nam có thêm cơ hội tiếp cận với nguồn vốn đầu tư nước
ngoài.
Nâng
cao sức cạnh tranh cho hàng xuất khẩu
Xây dựng một thị trường tự do hoàn
toàn về thuế quan là cơ sở quan trọng khi AEC đi vào hoạt động. Các quốc gia
thành viên AEC có cam kết xóa bỏ thuế quan trong thương mại nội khối. Điều này
có nghĩa trong giao dịch buôn bán giữa các nước thành viên, thuế xuất sẽ giảm
xuống 0%. Đây là điều kiện giúp doanh nghiệp Việt Nam có thể cắt giảm chi phí,
giảm giá thành sản phẩm, từ đó tăng khả năng cạnh tranh.
Ngoài ra, doanh nghiệp cũng có thể
tăng cường và nâng cao giá trị sản phẩm của mình thông qua tiếp nhận đầu tư từ
nước ngoài hay tiến hành hợp tác với các doanh nghiệp từ các nước thành viên
trong cộng đồng. Thêm vào đó, sản phẩm của Việt Nam cũng sẽ được hưởng những
quyền lợi và ưu đãi đặc biệt khi tiến vào những thị trường là đối tác chiến
lược của ASEAN, bởi theo Hiệp định Ưu đãi
thuế quan có hiệu lực chung (CEPT) thì sản phẩm được coi là có xuất xứ ASEAN
khi 40% sản phẩm được sản xuất ở ASEAN. Điều này có nghĩa sản phẩm của các nước
thành viên ASEAN nói chung và của Việt Nam nói riêng sẽ có nhiều lợi thế khi
xuất khẩu ra nước ngoài.
Thu
hút lao động có trình độ
Một trong những mục tiêu khi thành
lập AEC là tạo ra môi trường thuận lợi cho việc lưu chuyển của các nguồn lực,
trong đó nguồn lực lao động được coi là yếu tố cơ bản, quan trọng nhất. Tham
gia vào AEC, doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội tuyển dụng những lao động có tay
nghề, trình độ cao từ các nước ASEAN, qua đó có thể khắc phục tình trạng thiếu
lao động trình độ cao ở trong nước. Đến nay, các lao động trong các ngành nghề kế toán, kiến trúc sư, nha sĩ, kỹ sư, bác sĩ, y tá và cán bộ
hộ sinh, trắc địa viên và các nghề liên quan đến du lịch được di chuyển tự do trong khu vực.
Bên cạnh lao động, Việt Nam sẽ có cơ hội được tiếp nhận những công nghệ tiên
tiến, áp dụng, thay thế những dây chuyền, công nghệ sản xuất cũ kĩ, lạc hậu
trong nước, góp phần thay đổi năng suất lao động. Đồng thời, với việc lao động
được tự do di chuyển, trình độ quản lý của nước ta sẽ được cải thiện và phát
triển.
b. Thách thức
Song song với những cơ hôi, AEC được
thành lập đồng thời đặt ra nhiều thách thức cho khu vực và các nước thành viên.
Để tận dụng được cơ hội, duy trì được khả năng hội nhập và phát triển, Việt Nam
cần phải nhận thức được những khó khăn sẽ gặp phải.
Nguy
cơ trở thành thị trường tiêu thụ
Doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia
vào AEC có được những lợi ích từ việc thuế quan được xóa bỏ, các hàng rào phi
thuế quan cũng dần được hạn chế. Đó là cơ hội giúp cho doanh nghiệp trong nước
có thể tiếp cận thị trường các nước trong khối dễ dàng hơn. Tuy nhiên, cùng với
đó là nguy cơ doanh nghiệp Việt Nam để mất thị trường trong nước trong quá
trình hội nhập. Tăng cường hội nhập đồng nghĩa thị trường Việt Nam được mở cửa,
nhà đầu tư, nhà sản xuất nước ngoài có cơ hội vào Việt Nam, thị trường trong
nước sẽ trở nên hết sức cạnh tranh. Như vậy, rất có thể chúng ta sẽ mất đi lợi
thế sân nhà, các đối thủ cạnh tranh sẽ không chỉ là các doanh nghiệp trong
nước.
Đây thực sự là nguy cơ lớn được
chính các nhà lãnh đạo cấp cao trong ASEAN chỉ ra. Theo đó, cùng với Việt Nam,
các nước CLMV có nền kinh tế kém phát triển hơn, hội nhập chậm hơn, sẽ phải cắt
giảm thuế quan và các rào cản phi thuế quan cho hàng hóa và dịch vụ từ các nước
ASEAN khác mà chủ yếu và thực chất là từ các nền kinh tế phát triển hơn của ASEAN-6.
Khi đó, các nước ASEAN-6 sẽ có cơ hội mở rộng thị trường, tiếp cận với nguồn
lao động giá rẻ, còn 4 thành viên còn lại trong khối có nguy cơ trở thành thị
trường tiêu thụ cho các nước phát triển hơn.
Mối đe dọa về “sự lấn sân” này là có
cơ sở và có khả năng cao trở thành sự thật. Gần đây, thương vụ mua lại chuỗi
siêu thị bán lẻ BigC tại Việt Nam của Tập đoàn Central Group (Thái Lan) đánh
dấu sự tham gia thị trường bán lẻ Việt Nam của các ông lớn đến từ các nền kinh
tế phát triển hơn trong khu vực. Trước đó, cũng một tập đoàn của Thái Lan (Tập
đoàn Berli Jucker -BJC) đã đạt được thỏa thuận mua lại Metro Việt Nam. Cả BigC
và Metro Việt Nam đều là những tên tuổi lớn trên thị trường bán lẻ. Chính vì
thế, việc hai chuỗi siêu thị này được các đại gia Thái Lan “thâu tóm” sẽ khiến
nguy cơ hàng Thái tràn sang Việt Nam. Điều này sẽ ảnh hưởng không chỉ với các
nhà bán lẻ trong nước, mà còn cả với các nhà sản xuất khi mà khả năng cạnh
tranh của hàng Việt được đánh giá là kém hơn.
Chất
lượng và năng suất lao động còn thấp
Một nguy cơ khác mà Việt Nam phải
đối mặt chính là chất lượng và năng suất của lao động trong nước còn thấp, chưa
đáp ứng được yêu cầu sản xuất. Theo báo cáo của Viện năng suất Việt Nam năm
2014 thì năng suất lao động của Việt Nam thấp hơn rất nhiều so với các nước
trong khu vực và châu lục. Đây cũng chính là một rào cản cho các doanh nghiệp
trong nỗ lực nâng khả năng cạnh tranh của mình.
Doanh
nghiệp còn thiếu hiểu biết về AEC
Năm 2015 là năm quan trọng đối với
Việt Nam với nhiều sự kiện quốc tế nổi bật, đánh dấu thời kì hội nhập mới của
đất nước. Tuy nhiên, mức độ hiểu biết và nhận thức của cộng đồng doanh nghiệp
Việt, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ, dường như còn rất thấp. Theo số liệu
khảo sát gần 700 doanh nghiệp tại 5 tỉnh thành phố lớn vào giữa năm 2015 thì có
đến 65% doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam không biết gì về Cộng đồng kinh tế
ASEAN-AEC. Đây thực sự là một kết quả đem lại nhiều quan ngại khi mà phần đông
doanh nghiệp trong nước chưa có được một sự chuẩn bị kĩ càng trước một “trận
đánh lớn” như AEC. Khi hội nhập, điều quan trọng nhất là chúng ta phải nắm được
đầy đủ và chính xác thông tin, phải biết được vị trí, nguồn lực của chúng ta
trong khu vực và thế giới. Việc không có được sự nhận thức đầy đủ và đúng đắn
về AEC sẽ đem lại những bất lợi khi cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài.
Chính vì lẽ đó, việc nâng cao nhận thức của doanh nghiệp là hết sức cần thiết
trong bối cảnh hiện nay.
2.2
Một số khuyến nghị đối với doanh nghiệp
Thị trường ngày nay là một thị
trường mới, biến đổi từng ngày và cạnh tranh rất khốc liệt. Sự cạnh tranh sẽ
không chỉ đến từ trong khu vực ASEAN mà còn từ khắp nơi trên thế giới. Để đối
phó với những thách thức cũng như tận dụng những cơ hội, doanh nghiệp cần có
những biện pháp phù hợp khi tham gia vào thị trường quốc tế.
Tăng
cường hợp tác
Đây là yếu tố được đặt ra không chỉ
khi Việt Nam tham gia vào AEC mà từ khi chúng ta bắt đầu tiến trình hội nhập.
Như đã đề cập ở trên, khả năng cạnh tranh ở cả cấp độ quốc gia và cấp độ doanh
nghiệp của nước ta còn rất hạn chế. Chính vì thế, để có thể nâng cao sức cạnh
tranh của mình, hợp tác là yếu tố cần thiết, quyết định đối với mỗi doanh
nghiệp.
Hiện nay, khả năng hợp tác giữa các
doanh nghiệp trong nước còn yếu và chưa thực sự đem lại hiệu quả. Điển hình là
Việt Nam có khá nhiều hiệp hội (ví dụ như: Hiệp hội các nhà bán lẻ Việt Nam,
Hiệp hội cao su Việt Nam, Hiệp hội chè Việt Nam,...) nhưng hầu hết các hiệp hội
Việt Nam chưa phát huy được vai trò của mình. Để cải thiện được vấn đề này, các
hiệp hội cần có sự đổi mới mạnh mẽ về tổ chức và cách thức hành động, trở thành
chỗ dựa thực sự cho doanh nghiệp trong thời kì hội nhập. Vai trò của các hiệp
hội giờ đây không còn chỉ là xúc tiến thương mại, quảng bá sản phẩm mà các hiệp
hội phải là người giúp doanh nghiệp đào tạo nhân lực, cũng cấp thông tin, tư
vấn, phản biện chính sách, hỗ trợ các vấn đề pháp lý,..., đặc biệt những vấn đề
có liên quan đến thương mại quốc tế.
Bên cạnh phải đoàn kết, xây dựng các
hiệp hội thì việc hợp tác với nước ngoài cũng cần phải được đẩy mạnh. Việt Nam
hiện nay ngày càng hội nhập sâu, thị trường mở cửa với nhiều chính sách thu hút
đầu tư. Những điều kiện thuận lợi này sẽ giúp doanh nghiệp trong nước có thể dễ
dàng tiếp cận nhà đầu tư nước ngoài, tăng quy mô sản xuất, tiếp nhận những tiến
bộ về khoa học công nghệ và trình độ quản lý, từ đó nâng cao khả năng cạnh
tranh. Tuy nhiên, các doanh nghiệp cần phải lựa chọn đối tác phù hợp với quy mô
và tính chất của mình. Theo chia sẻ của ông Phạm Đình Đoàn, chủ tịch Tập đoàn
Phú Thái, trong buổi giao lưu CEO NETWORK 2015, thì có 3 yếu tố để lựa chọn đối
tác nước ngoài: (1) đối tác phải đủ lớn, có tiềm lực về vốn, kĩ thuật, nhân sự;
(2) đối tác phải phù hợp với bản thân doanh nghệp và thị trường Việt Nam; (3)
đối tác phải thực sự mong muốn vào thị trường Việt Nam.
Chủ động
Phần đông doanh nghiệp Việt Nam
không có sự chủ động cần thiết trong tiến trình hội nhập, đặc biệt là doanh
nghiệp vừa và nhỏ. Đây là điểm yếu cần khắc phục trong môi trường cạnh tranh
mạnh mẽ như hiện nay.
Trước hết là phải chủ động tiên
phong đổi mới, thay đổi cấu trúc. Những tư duy tổ chức, sản xuất lạc hậu phải
được xóa bỏ, thay vào đó là tính hiện đại và chuyên nghiệp. Các doanh nghiệp,
dù lớn hay nhỏ, đều phải có tổ chức chặt chẽ, minh bạch, hiệu quả đồng thời
phải thể hiện sự chuyên nghiệp trong từng công đoạn của quá trình sản xuất,
phân phối.
Sự chủ động thứ hai mà doanh nghiệp
cần phải tiến hành là chủ động tìm kiếm thông tin. Trong bối cảnh một thị
trường luôn biến động và thay đổi không ngừng như hiện nay thì thông tin có thể
coi là một yếu tố quyết định đến sự tồn tại của bất cứ doanh nghiệp nào. Chính
vì thế, doanh nghiệp cần phải cập nhật thường xuyên những thông tin về AEC, nắm
bắt được lộ trình hội nhập của đất nước, qua đó có những điều chỉnh phù hợp
trong chiến lược sản xuất kinh doanh, đặc biệt về thị trường, sản phẩm và mức
độ cạnh tranh.
Cuối cùng, doanh nghiệp cần chủ động
ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ, đặc biệt là thương mại điện tử, trong quá
trình hoạt động. Ngày nay, với sự phổ biến của internet, máy vi tính, điện
thoại thông minh, thị trường đã có những sự thay đổi cơ bản. Sự tương tác giữa
nhà sản xuất và khách hàng ngày nay trực tiếp, dễ dàng và hiệu quả hơn rất
nhiều. Trên thế có rất nhiều ông lớn về thương mại điện tử mà với sự xuất hiện
của họ đã làm thay đổi cả tư duy mua hàng của người tiêu dùng lẫn tư duy hoạt
động của nhà sản xuất (ví dụ như Amazon, Alibaba, Epay,...). Có thể nói ứng
dụng thương mại điện từ ngày nay là yếu tố tất yếu trong hoạt động của mỗi
doanh nghiệp. Nói cách khác, quyết định đến sự thành công không đơn thuần chỉ
là tập trung sản xuất sản phẩm có chất lượng thật tốt, mẫu mã đẹp mà còn từ
cách doanh nghiệp quản lý mối quan hệ với khách hàng, đối tác thông qua những
website, những sàn giao dịch điện tử.
Đào
tạo nhân lực chất lượng cao
Để có thể đối phó với những áp lực
ngày càng tăng khi gia nhập AEC, một trong những vấn đề mà các doanh nghiệp cần
phải lưu tâm là chất lượng lao động. Thực trạng lao động Việt Nam hiện nay rất
kém, chưa đáp ứng được các điều kiện, yêu cầu của bối cảnh hội nhập. Do đó, nếu
muốn nâng cao khả năng cạnh tranh của mình, sự quan tâm hơn đến việc phát triển
thị trường lao động là rất cần thiết. Không chỉ là những lao động đang làm
việc, doanh nghiệp cần có sự hợp tác với các cơ quan ban ngành, các trường cao
đẳng, đại học nhằm tập trung vào hoàn thiện thể chế, đưa ra chính sách phát
triển đồng bộ. Từ đó có thể nâng cao chất lượng lao động cho xã hội, góp phần
xây dựng lực lượng lao động có tay nghề và trình độ chuyên môn cao, giỏi về
ngoại ngữ, thông thạo môi trường khu vực.
KẾT LUẬN
Hiện nay, nền kinh tế thế giới đòi
hỏi sự hợp tác ngày càng chặt chẽ, sâu rộng hơn. Các nền kinh tế trên thế giới,
dù là các siêu cường kinh tế, cũng đều phải có sự hợp tác, giao lưu với bên
ngoài. Trong bối cảnh đó, sự ra đời của Cộng đồng kinh tế ASEAN-AEC là tất yếu,
cho thấy tầm nhìn và chủ động của các quốc gia Đông Nam Á trong quá trình hội
nhập. AEC được thành lập sẽ không chỉ tạo ra môi trường hợp tác cho các quốc
gia trong khu vực, mà còn góp phần xây dựng một thị trường chung, một nền kinh
tế có tính cạnh tranh cao, giúp ASEAN tham gia toàn diện vào nền kinh tế toàn
cầu.
Đối với Việt Nam, những cơ hội mà AEC
mang lại là rất lớn. Đó là cơ hội tiếp cận sâu hơn vào một thị trường hơn 600
triệu dân, cải thiện môi trường đầu tư, tăng khả năng thu hút nguồn nhân lực.
Tận dụng được những thuận lợi trên, doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội lớn để phát
triển, mở rộng thị trường, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Tuy
nhiên, bên cạnh những thuận lợi thì chúng ta cũng phải đối mặt với những khó
khăn rất lớn. Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước còn rất thấp,
không thể cạnh tranh với doanh nghiệp nước ngoài, dẫn đến nguy cơ không thể mở
rộng được thị trường mà còn có thể đánh mất thị trường tiêu thụ trong nước.
Ngoài ra, sự thiếu chủ động trong việc tìm hiểu về AEC có thể khiến cho các
doanh nghiệp Việt Nam không nắm bắt được thị trường, không có chiến lược sản
xuất kinh doanh đúng đắn và dần bất lợi khi tham gia vào thị trường cạnh tranh
như AEC.
Qua việc nhận định, phân tích những
cơ hội và khó khăn mà AEC đem lại, bài nghiên cứu đưa ra một số giải pháp cần
phải thực hiện, giúp doanh nghiệp có thể tham gia tích cực và hiệu quả hơn vào
nền kinh tế khu vực: doanh nghiệp cần tăng cường hợp tác với cả đối tác trong
nước và nước ngoài; chủ động hơn trong hoạt động; tham gia vào quá trình đào
tạo lao động, góp phần xây dựng nguồn nhân lực có chất lượng cho hiện tại và
tương lai. Qua đó, doanh nghiệp có thể tận dụng được các cơ hội, đứng vững
trước sự cạnh tranh mạnh mẽ do quá trình hội nhập quốc tế đem lại.
DANH MỤC TÀI LIỆU
THAM KHẢO
3.
Ban
thư kí ASEAN, 2015, ASEAN Economic
Community 2015: Process and Key Achievement
4.
Viện
năng suất Việt Nam, 2014, Báo cáo năng
suất Việt Nam 2014
5.
Tiến
sĩ Ngô Tuấn Anh, 2015, Hướng tới Cộng
đồng kinh tế ASEAN 2015: Những vấn đề đặt ra với doanh nghiệp Việt Nam
6.
Tiến
sĩ Lê Đăng Doanh, 2014, Bài giảng “AEC
2015-cú huých tổng lực cho doanh nghiệp Việt”, Diễn đàn tư vấn quản trị
2014
7.
PGS,
TS Lưu Ngọc Trịnh, 2016, Bài giảng “Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và Cộng đồng
Châu Á”, khóa học Tăng cường hiểu biết lẫn nhau hướng tới Hội nhập khu vực
và Cộng đồng Châu Á 2016
8.
CEO
NETWORK 2015, nguồn: http://ASEAN.thuvienphapluat.vn/
0 nhận xét:
Đăng nhận xét